Đức Phật bậc giác giả

Đối với một số người, Đức Phật là một vị thần tuy nhiên trên thực tế Siddhartha Gautama hay Siddhattha Gotama là một người vô thần và vì vậy ông đã không xem mình là một vị thần. Đối với những người, như Đức Phật, người có địa vị như là một người vô thần hay bất khả tri tôi sẽ kêu gọi bạn quan tâm đến một số các luận cứ về vũ trụ học và sự tranh luận về sự tồn tại của thượng đế mà tôi đã đưa ra trong các bài viết trước đây của tôi.

 Người vô thần và Thuyết bất khả tri

Nếu chúng ta có thể kết luận rằng Chúa thực sự tồn tại thì chúng ta sẽ tin vào Người để tăng sự hiểu biết và suy nghĩ đúng đắn trong việc định hướng cuộc sống của chúng ta thay vì các bâc thầy và Đức Phật.

Ngoài ra đối với những người dâng lên sự tôn quý cho Đức Phật làm sao họ biết rằng những lời nói của ngài đã được giữ gìn hoàn hảo vì những lời nói của ngài không được ghi lại thành văn bản cho đến mãi 400 năm sau khi ngài qua đời? Việc này sẽ cung cấp một khoảng thời gian để văn hóa truyền miệng thêm thắt vào nội dung của các bài giảng của ngài và đó chính là cánh cửa mở ra những câu chuyện thần thoại. Cũng theo những gì được cho là lời của ngài thì ngài đã được cho là đã dạy rằng nếu một người tìm thấy sự vô giá trị trên một số mặt nào đó của giáo lý của ngài thì họ có thể bỏ qua nó. Vậy làm thế nào để một người có thể tuyên bố là người đó có chân lý trong khi không khẳng định mình theo một cách khách quan?

Ngoài ra trong giáo lý Đức Phật đã được chia ra làm nhiều trường phái khác nhau của nhiều giáo phái khác nhau nhưng lại có quan điểm trái ngược nhau.

Có lẽ điều đó là do có sự khác biệt được tìm thấy giữa các nguồn tài nguyên đa dạng và đồ sộ vì vậy làm nó trở nên khó khăn nếu không thể dung hòa những sự khác biệt này trong cùng một văn bản.

Sau đó một lần nữa tôi tự hỏi là liệu Đức Phật có thể nhận ra được hết tất cả các phiên bản mà ông được cho là tác giả hay không.

Dù sao câu hỏi đặt ra ở đây là Đức Phật có thực sự đã được ngộ đạo hoặc được khai sáng hay không? Bằng cách nào mà ngài hoặc bất cứ một ai khác biết rằng thực tế họ có vươn tới hay đạt được cảnh giới này hay không và bằng cách nào mà một người có thể đánh giá được hiện tượng năng khiếu tâm linh này? Việc tuyên bố sự khai sáng có thể là ảo tưởng về sự khai sáng vì không có tiêu chuẩn trong đó tiêu chuẩn hóa điều kiện của sự thiêng liêng này.

Ngay cả bản thân Đức Phật cũng không thể mô tả hoặc xác định các khái niệm về sự hân hoan như niết bàn ngoại trừ nói rằng cái gì không phải là nó. Nếu một người được thức tỉnh không thể xác định cảnh giới cuối cùng của sự khai sáng của ngài thì làm cách nào một người có thể chắc chắn rằng đó thật sự là cảnh giới họ đạt được hay đang dần đạt được?

Có thể thế giới quan tôn giáo này chỉ là một sự lừa dối mà kết quả đó là làm cho người ta lãng phí cuộc sống quý giá thông qua một triết lý bi quan và vô thực và chấm dứt sự thèm muốn cuộc sống của con người hơn là theo đuổi niềm vui được khai sáng bởi những món quà của cuộc sống?

Trong thực tế mong muốn không bao giờ có thể bị dập tắt bằng bất cứ cách nào và thậm chí các nhà sư người đã tận tụy với lối sống kiểu tu viện với kỷ luật về tinh thần vẫn có mong muốn giữ gìn giới luật của bốn sự thật vi diệu và đi trên bát chánh đạo để đạt được mong muốn về trạng thái niết bàn.

Triết lý này phủ nhận một người có thể theo Phật giáo suốt đời nhưng thực tế là có những ai có thể sống cuộc sống của họ theo những nguyên tắc này đến cuối đời?

Cũng như vậy, làm thế nào một người có thể chứng minh những ý tưởng như là vô thường hay vô ngã? Trong phân tích cuối cùng thì liệu đó có phải chỉ là thuật ngữ hay từ ngữ tôn giáo vô nghĩa hay là nó có thật? Có phải tất cả cuộc sống được hiểu chỉ là một thế giới huyền ảo của bóng tối mà không có bất cứ khái niệm nào về sự ổn định và lâu dài? Một lần nữa có phải những Phật tử sống theo những lý tưởng này và thực hiện đúng như thế trong suốt cuộc đời ngày qua ngày?

Tiếp đến để đáp lại việc nhấn mạnh sự tránh đau khổ thì triết lý này là một phần của phản ứng tiêu cực với nội dung là chủ nghĩa khoái lạc để tối đa hóa niềm vui trong khi giảm thiểu hoặc tránh đau đớn.

Liên quan đến khía cạnh của sự đau đớn và đau khổ thì khái niêm này chỉ có thể được thấy rõ nếu có sự tồn tại của các yếu tố đối lập là niềm vui và sự tốt lành nếu không chúng ta không có gì liên quan đến những gì được gọi là đau đớn hay đau khổ. Vì vậy nếu mức độ của sự tốt lành và hạnh phúc có thể đạt được không được ca tụng hơn là có thể tránh soi vào tấm gương vì một nữa đầy đủ hơn là một nữa không có gì? Chúng ta không nên mong muốn đón nhận những khía cạnh tích cực của cuộc sống hơn là tránh mong muốn tất cả ư? Chỉ vì cuộc sống cuộc sống có đầy những trở ngại thì có nghĩa là tốt hơn hết là chấp nhận thất bại và tránh chạy đua hay sẽ có lợi hơn nếu đương đầu với những thách thức và vượt qua những trở ngại trong cuộc sống? Bạn biết rằng đôi khi những điều tốt đẹp có thể đến từ những khổ đau nhưng nếu một người tránh những trải nghiệm này thì có đáng được tôn trọng không khi trốn tránh cuộc sống như vậy? Chúng ta đã thấy những người như anh hùng mà chúng ta ngưỡng mộ vì đã đặt sinh mạng của họ vì lợi ích của những người khác như những gì Chúa Giêsu đã làm qua cái chết của Người trên thập giá. Điều này đã được thực hiện trên danh nghĩa của nhân loại, trong đó người đã chịu hình phạt của tội lỗi của chúng ta để giải phóng chúng ta khỏi lời nguyền của đau khổ đời đời bằng cách xứng đáng, thay cho chúng ta hạnh phúc vĩnh cửu của một vương quốc trên trời.

Tôi hiểu và đồng ý rằng sự khổ đau là một thảm họa mà là một phần của sự cuộc sống trên thế giới nhưng nó không nên được tránh bằng cách từ bỏ hoặc thoát ra thực tế này mà không làm gì để giải quyết vấn đề, thoát khỏi chính mình và thế giới của chúng ta trong tình trạng lộn xộn như vậy . Sẽ tốt hơn nếu tập trung năng lượng và những nỗ lực của chúng ta vào việc xây dựng bệnh viện và nơi trú ẩn cho những người nghèo khó, xây dựng trại trẻ mồ côi cho những đứa trẻ bị bỏ rơi của chúng ta chứ không phải là để có một cách tiếp cận thụ động trong hành động đối với những người đã gặp những hoàn cảnh không may mắn như vậy.

Hơn nữa, việc sống trong tu viện không giải quyết được các vấn đề về sự đau khổ của nhân loại và sự tách biệt mang tính chất tự bảo vệ hơn là một cách tiếp cận tiến bộ trong việc xử lý những vấn đề này.

Kitô giáo đã giữ vị trí và dẫn đầu trong việc tạo ra những nỗ lực rất lớn để cung cấp viện trợ nhân đạo cho cuộc sống của những người khác tốt hơn bằng cách giảm bớt sự thiếu thốn của kẻ đau khổ khốn cùng hơn là chấp nhận quan điểm giúp đỡ người khác là sự đóng góp cho sự xấu xa vì làm tăng lên sự Ham muốn của những người khác hoặc theo một lý do khác việc những người này đang thực sự đau khổ là do họ phải hứng chịu quả báo.

Sự đau khổ có thể là kẻ thù nhưng trớ trêu thay bằng cách chấm dứt ham muốn thì chỉ dẫn đến nhiều đau khổ hơn như Phật giáo đang tìm cách thoát khỏi.

Một sự mỉa mai khác cần nhấn mạnh của triết lý này đó là Đức Phật người tìm thấy căn nguyên của sự đau khổ và cách để chấm dứt nó đã là thủ phạm tự làm đau mình và hành động của ngài trái ngược với sứ mệnh của ngài vì ngài đã bỏ rơi gia đình của ngài bao gồm vợ các các con của ngài bằng cách tạo ra sự đau khổ cho họ nhằm theo đuổi mục tiêu của mình.

Trong phân tích cuối cùng của tôi thì Phật giáo ở hình thức đơn giản nhất dường như chính là sự ích kỷ bởi vì dù là nó có thể duy trì một quy tắc đạo đức cơ bản trong đối xử với người khác nhưng nó thoát ra khỏi mối quan tâm và tự giải quyết vấn đề đau khổ riêng của mình như một cách làm một cái gì đó xứng đáng vì mục đích riêng của họ, cụ thể ở đây là niết bàn.

Vì vậy nếu mục tiêu tối thượng và động lực cho Phật giáo là xóa bỏ sự đau khổ của mọi người thì đạo lý trong sự tương tác lẫn nhau với người khác chỉ được xem như là phương tiện để đạt được sự kết thúc.

Tuy nhiên Chúa Giêsu lại có sự tiếp cận khác cho nhân loại trong đó người không ích kỷ, đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ thể hiện trong việc đem cuộc sống của mình ra làm giá chuộc cho nhiều người.

Cuối cùng theo quan niệm Phật giáo các khái niệm về trách nhiệm giải trình hoặc sự phán quyết tồn tại thông qua hệ thống nghiệp chướng và sự tái sinh.

Điều này có vẻ như một nghịch lý đối với tôi để tin rằng một nhà lãnh đạo tinh thần đáng kính như Đạt Lai Lạt Ma đang sống lưu vong hoặc việc hãm hiếp các nữ tu Phật giáo Tây Tạng của cộng sản Trung Quốc là kết quả của một số loại nghiệp chướng từ kiếp trước.

Ngoài ra tôi đang tự hỏi làm thế nào để hệ thống trả thù trở thành quản lý cho một người vô thần, người có thể phủ nhận sự tồn tại của một đấng tối cao và người nào khác có thể sắp đặt một hệ thống tín ngưỡng như vậy? Sau tất cả một người nào đó phải xác định và đánh giá các hệ thống phức tạp của những công việc này để có được một số dạng của hệ thống có trật tự. Việc này sẽ có được nhờ một đấng toàn năng, toàn trí, có mặt ở khắp nơi đó chính là Đức Chúa người có thể giám sát một vấn đề khó hiểu như vậy và như vậy làm sao có thể chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa?

Thêm vào đó, nếu niết bàn là thành quả cuối cùng và đích đến cuối cùng trong việc xá tội cho bản thân khỏi vòng luân hồi vô tận thì làm sao người ta có thể hoàn toàn chắc chắn về cõi này được?

Có ai đó từng tìm ra cõi niết bàn và trở lại để kể câu chuyện của họ? Đây có phải là một kinh nghiệm thực tế hoặc là họ phụ thuộc vào niềm tin mù quáng? Tôi đã làm một blog về cuộc sống sau khi chết hoặc gần chết với những trải nghiệm mà bạn có thể tìm thấy sự hữu ích và thú vị.

Địa ngục là có thực?

Để đối phó với triết học Phật giáo tôi muốn cung cấp một cách nhìn khác trong đó nói về Chúa Giêsu là Ánh Sáng của thế giới và là Đấng soi sáng con đường của mỗi người và nếu chúng ta tin tưởng Ngài là Chúa và Đấng Cứu Thế Người cuối cùng sẽ dẫn chúng ta ra khỏi thế giới đau khổ này không phải bằng sự khắc nghiệt của một nỗ lực cá nhân dưới một số dạng trạng thái bí truyền của ý thức mà là sự đảm bảo cho chúng ta một số phận đời đời hạnh phúc trên trời.

Tôi bước vào một mối quan hệ với Chúa Giêsu hơn 20 năm trước và ông đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi và lấp đầy tôi với mong muốn được sống chứ không phải là truyền cảm hứng cho tôi coi thường nơi ở tạm thời của tôi.

Nếu bạn thích bạn có thể đọc bằng chứng của tôi tại:

Bài làm chứng của tôi về Chúa Giê-xu

Ngoài ra một điểm bị phản đối đó là bất cứ cái gì Phật giáo đạt được về mặt học thuật đều đã được thực hiện ở các trường học của Ấn Độ.

Đức Phật có thể đã thất lạc từ Ấn Độ giáo tuy nhiên ngài được sinh ra, sống, chết là một người Ấn Độ giáo và Phật giáo do đó mặc dù biến đổi gen này sẽ gần giống với tôn giáo mẹ là Ấn Độ giáo.

Một lần nữa cây bo của Phật giáo đã bắt rễ sâu trong Ấn Độ giáo, trong đó nó đã lấy sự nuôi dưỡng từ như một cấu trúc hỗ trợ quan trọng trong việc duy trì tính rõ ràng của Phật giáo như là một tổ chức tôn giáo.

Nói cách khác, mặc dù có những khác biệt trong tín ngưỡng giữa hai nền văn hóa tôn giáo, Phật giáo sẽ không tồn tại nếu không có sự hướng dẫn của vị đạo sư của Ấn Độ và do đó nó thiếu tính căn nguyên, nó không có nguồn gốc trong Phật nơi hình thành tên của nó nhưng bản sắc của nó chủ yếu đến từ nguồn khác.

Vì vậy, bạn muốn đặt tất cả trứng bị đánh cắp của bạn trong ba giỏ như Phật giáo giảng dạy hoặc bạn sẽ giao phó mình vào những cánh tay bảo hộ của một Thiên Chúa yêu thương và nhân từ người bạn mong muốn và tạo ra bạn để bạn có thể có sự sống và sự sống dồi dào hơn?

Tóm lại lập luận này không phải là của người có triết lý hoặc biểu đạt văn hóa tốt nhất nhưng nó là sự tìm kiếm sự thật và cho phép sự thật dẫn chúng ta đi đúng con đường đến với những điều không thể tránh khỏi. Chúa Kitô đưa ra ánh sáng con đường của mỗi người nhưng nếu ánh sáng duy nhất mà bạn có thực sự chỉ là bóng tối thì làm thế nào bạn có thể tìm thấy con đường của bạn.

Tuy nhiên, Kinh Thánh khuyến khích chúng ta rằng những lời của Đức Chúa là ngọn đèn cho chân của chúng ta và là ánh sáng cho đường lối của chúng ta.

Cuối cùng, tôi hy vọng rằng lời lẽ của tôi không bị hiểu lầm như chỉ là một hành vi xúc phạm chánh ngữ và mặc dù lời nói của tôi dường như hơi cứng rắn nhưng tôi có một động lực của mối quan tâm thực sự, cái buộc tôi phải giải thích quan điểm của tôi trong việc tìm kiếm lợi ích cho người khác. Một lần nữa tôi xin lỗi nếu tôi đã vô lễ hoặc đã xúc phạm bạn không cần thiết vì tôi chỉ không biết làm thế nào để nói những điều này một cách mềm mại và truyền đạt hiệu quả tính chất hệ trọng của các khái niệm quan trọng.

Ngoài ra tôi tin là Phật giáo có một hệ thống trách nhiệm giải trình đúng và sai. Những ý tưởng này có quan hệ mật thiết trong khung chính của sự tồn tại của chúng ta, trong đó Thiên Chúa truyền đạt sự thật đến các bộ phận của chúng ta vào bên trong để chúng ta theo bản năng biết rằng có những hậu quả và phán đoán để quyết định cuộc sống của chúng ta và điều này là đáng kính, trong khi đó Phật giáo rất ít khi thừa nhận điều đó nhưng lại chỉ ra cách nọ cách kia để xoa dịu ý thức thông qua các nỗ lực bản thân của việc luyện tập tôn giáo chỉ là một hành vi giả mạo với thực tế là có một mối quan hệ cá nhân với Đấng tối cao người có thể loại bỏ gánh nặng của tội lỗi mà con người cái mà con người rất khó để dập tắt bằng cách tự nỗ lực.

Để kết thúc tôi sẽ chỉ yêu cầu bạn chỉ đơn giản là xem xét nó như là một lời mời để nếm thử và thấy rằng Chúa bao dung và mở rộng trái tim của bạn để khám phá con người và công việc của Chúa Giêsu.

Cuối cùng tôi muốn để lại cho bạn một thánh được thốt ra bởi Chúa Giêsu trong Phúc âm Matthêu 11: 28-30 28″Hãy đến với tôi, tất cả những kẻ đang mệt mỏi và nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. 29 Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học từ Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và bạn sẽ tìm thấy phần còn lại cho linh hồn của bạn. 30 Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng. ”

 

 

Làm thế nào để có mối tương giao với Đức Chúa Trời

 

Liên kết

Tài nguyên Phật giáo

Buddha the Enlightened One

 

 

Copyright permission by Bridge-Logos “The School of Biblical Evangelism”

Leave a Reply